Lễ hội Cồng chiêng là một nét đẹp trong văn hóa của đồng bào Tây Nguyên. Lễ hội được tổ chức nhằm quảng bá hình ảnh của không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại từ năm 2005. Trong thời gian qua, các tỉnh Tây Nguyên đã có nhiều biện pháp tích cực nhằm bảo tồn và phát huy di sản này.
Sinh khí của Tây Nguyên
Không gian văn hóa cồng, chiêng Tây Nguyên trải dài ở năm tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Nông, Lâm Đồng. Chủ nhân của loại hình văn hóa đặc sắc này là cư dân của 17 dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên như Êđê, Bana, M’nông, Xêđăng, Cơho, J’rai…Đối với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, âm hưởng cồng chiêng đi suốt vòng đời người, từ lúc sơ sinh đến lúc trưởng thành và cả khi về với tổ tiên cũng đều có âm nhạc của cồng, chiêng đưa tiễn. Ở đâu có lễ hội, ở đó có nhạc chiêng, từ lễ cúng bến nước, lễ bỏ mả, lễ trưởng thành, lễ chúc phúc, lễ mừng cơm mới, lễ rước kpal…Bên bếp lửa trong ngôi nhà dài của đồng bào Êđê hay dưới mái nhà rông của đồng bào Bana, J’rai…, mỗi khi nhạc chiêng vang lên là lúc các thành viên trong buôn làng, cùng về sum họp, mọi người xích lại gần nhau hơn.
Không gian văn hóa cồng chiêng gắn với không gian sinh sống của đồng bào Tây Nguyên. Chính vì thế mà các tỉnh Tây Nguyên đã thực hiện nhiều giải pháp tích cực để sưu tầm, bảo tồn, phát huy những giá trị của di sản văn hóa cồng, chiêng Tây Nguyên. Nhiều người thường nói, mái nhà rông của đồng bào J’rai, ngôi nhà dài của đồng bào Êđê là linh hồn của buôn, làng Tây Nguyên, thì âm nhạc cồng chiêng là sinh khí của buôn làng, chứng tỏ sức sống bền bỉ của một thực thể với bản sắc độc đáo của người dân Tây Nguyên. Chính vì lẽ đó mà các tỉnh Tây Nguyên rất coi trọng việc sưu tầm, bảo quản hàng chục ngàn bộ cồng chiêng, trong đó, tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai, Lâm Đồng là những địa phương có số hộ gia đình đồng bào lưu giữ, bảo tồn số bộ cồng, chiêng đủ nhiều nhất.
Hiện nay đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên còn lưu giữ hàng nghìn bộ cồng chiêng quý, hạn chế được tình trạng “chảy máu” cồng chiêng. Tại ba tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, đồng bào còn lưu giữ trên 9.760 bộ cồng chiêng. Riêng tại Đắk Lắk, đồng bào dân tộc Ê đê, M’nông, J’rai, Sê Đăng, Bru-Vân Kiều đang lưu giữ trên 2.300 bộ cồng chiêng. Đây là một trong những địa phương mà đồng bào dân tộc thiểu số còn lưu giữ nhiều bộ cồng chiêng nhất ở Tây Nguyên. Tỉnh Đắk Lắk cũng có kế hoạch đầu tư trên 48,8 tỷ đồng để bảo tồn, phát huy di sản không gian văn hóa cồng chiêng.
Bên cạnh việc gìn giữ gìn, bảo quản cồng chiêng thì các tỉnh Tây Nguyên còn thực hiện nhiều biện pháp tích cực trong việc bảo tồn, phát huy di sản không gian văn hóa cồng chiêng, góp phần quan trọng trong việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa của cồng chiêng, phục vụ tốt yêu cầu phát triển văn hóa, xã hội trên địa bàn. Các lễ hội truyền thống, liên hoan văn hóa cồng chiêng từ tỉnh đến cơ sở được tổ chức thường xuyên để tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc tham gia diễn tấu thường xuyên. Các tỉnh cũng mời các nghệ nhân là đồng bào dân tộc Êđê, M’nông, J’rai, Bana…về truyền dạy đánh cồng, đánh chiêng cho con em đồng bào ở các buôn làng, đồng thời đầu tư kinh phí mua cồng chiêng về cấp cho các nhà văn hóa cộng đồng.
Hiện nay, Đắk Lắk có hàng trăm đội chiêng của ama, amí (những người lớn tuổi) và có tới 500 đội chiêng trẻ là con em của đồng bào dân tộc Ê đê ở các buôn làng…Ông Y Duê, Đội trưởng đội cồng chiêng buôn Kô Siêr (thành phố Buôn Ma Thuột) – đội đã từng biểu diễn cho nhiều đoàn khách quốc tế, khách du lịch và nhiều lần đi biểu diễn ở các nước trên thế giới – hồ hởi nói: “Buôn làng Tây Nguyên vẫn mãi mãi âm vang tiếng cồng chiêng. Vì người lớn tuổi về với núi rừng, về với tổ tiên thì vẫn còn có con cháu nối tiếp để đánh cồng, đánh chiêng. Các nhà nghiên cứu bảo tiếng cồng chiêng của đồng bào Tây Nguyên nghe lạ lắm, thích thú lắm, nghe như có cả tiếng của rừng núi vọng về…”
Để bảo tồn văn hóa Tây Nguyên, trong đó có cồng chiêng, thì vai trò nòng cốt thuộc về các già làng, nghệ nhân và trí thức dân tộc. Chính họ là những người khơi dậy được ý thức và niềm tự hào trong mỗi người dân của buôn làng, từ đó hình thành động lực và sức mạnh nội tại để bảo tồn, phát triển văn hóa.
Những cung bậc cồng chiêng
Theo các nhà nghiên cứu, văn hóa cồng, chiêng bắt nguồn từ văn minh Đông Sơn cổ đại, nền văn minh được biết đến với tư cách là một nền văn hóa trống đồng nổi tiếng ở Đông Nam Á. Cồng chiêng được đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên quan niệm như là ngôn ngữ giao tiếp hàng đầu của con người với thần thánh và thế giới siêu nhiên. Bộ cồng chiêng của mỗi gia đình xưa kia còn là biểu hiện cho sự giàu có của người Tây Nguyên.
Cồng chiêng là loại nhạc khí bằng hợp kim đồng, có khi pha bạc, vàng hoặc đồng đen. Cồng là loại có núm, chiêng không có núm. Các dàn cồng chiêng thường gồm nhiều bộ, mỗi bộ có số lượng khác nhau và đảm nhiệm những chức năng riêng trong các cuộc hòa tấu. Nhạc cụ cồng, chiêng có nhiều kích cỡ, có loại đường kính từ 20, 50 và 60cm, loại cực đại có khi lên đến 90cm. Cồng, chiêng có thể được dùng đơn lẻ hoặc dùng theo dàn. Một bộ có từ 2-13 chiếc, thậm chí 18-20 chiếc. Trong một bộ chiêng có chiêng cái (chiêng mẹ) là quan trọng nhất.
Các dàn cồng chiêng không chỉ làm nhiệm vụ điểm nhịp, đi tiết tấu hoặc giai điệu một bè mà còn hòa tấu nhạc đa âm. Cồng chiêng có thể được gõ bằng dùi hoặc đấm bằng tay. Có tộc người còn áp dụng kỹ thuật chặn tiếng bằng tay trái. Mỗi bài chiêng có rất nhiều bè, trong đó, mỗi cá nhân sẽ dùng một cái chiêng. Các nghệ nhân diễn tấu cồng, chiêng nhớ rõ các tiết tấu trong đầu và kết hợp với nhau lại rất hài hòa. Cách phối hợp âm thanh giữa những chiếc cồng, chiêng để làm thành thang âm điệu thức hết sức đặc biệt.
Về nguồn gốc, theo một số nhà nghiên cứu, cồng chiêng là “hậu duệ” của đàn đá. Trước khi có văn hóa đồng, người xưa đã tìm đến loại khí cụ đá: cồng đá, chiêng đá… tre, rồi tới thời đại đồ đồng, mới có chiêng đồng…Từ thuở sơ khai, cồng chiêng được đánh lên để mừng lúa mới, xuống đồng; biểu hiện của tín ngưỡng – là phương tiện giao tiếp với siêu nhiên… Tất cả các lễ hội trong năm, từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh đến lễ bỏ mả, lễ cúng máng nước, lễ mừng cơm mới, lễ đóng cửa kho, lễ đâm trâu.. . hay trong một buổi nghe khan… đều phải có tiếng cồng chiêng như là thứ để nối kết những con người trong cùng một cộng đồng.
Cũng theo các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên có nhiều phong cách chơi cồng chiêng rất phong phú, bài bản. Người Bana, J’rai đánh cồng chiêng theo phong cách chủ điệu (một bè trầm đánh trên là một vài giai điệu); đồng bào Êđê đánh cồng chiêng theo cách thức từng chùm hợp âm nối tiếp…Đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên không chỉ dùng riêng một loại chiêng núm hoặc chiêng bằng mà thường kết hợp với nhau, trong đó, chiêng núm làm bè trầm, chiêng bằng đánh giai điệu. Khi biểu diễn vòng tròn, các nghệ nhân đánh và di chuyển dàn cồng chiêng từ phải qua trái với ý nghĩa ngược chiều với thời gian, hướng về nguồn cội.
Văn hóa và âm nhạc cồng chiêng thể hiện tài năng sáng tạo văn hóa-nghệ thuật ở đỉnh cao của các dân tộc Tây Nguyên. Mỗi dân tộc trên mảnh đất Tây Nguyên lại có những bản nhạc cồng chiêng riêng để diễn tả vẻ đẹp thiên nhiên, khát vọng của con người. Nếu như người J’rai có các bài chiêng Juan, Trum vang…, thì người Bana có các bài chiêng Xa Trăng, Sakapo, Atâu, Tơrơi…Âm thanh của cồng chiêng còn là chất men lôi cuốn gái trai vào những điệu múa hào hứng của cả cộng đồng trong những ngày hội của buôn làng – nét sinh hoạt văn hóa dân gian nổi bật nhất ở nhiều dân tộc Tây Nguyên. Trải qua bao năm tháng, cồng chiêng đã trở thành nét văn hóa đặc trưng, đầy sức quyến rũ. Cồng chiêng chính là cuộc sống của người Tây Nguyên. Nghe cồng chiêng thì thấy được cả không gian săn bắn, không gian làm rẫy, không gian lễ hội…
Bản sắc văn hoá các dân tộc ít người Tây Nguyên thể hiện đậm đà nhất trong cồng chiêng và sinh hoạt văn hoá cồng chiêng. Tín ngưỡng, lễ hội, nghệ thuật tạo hình, múa dân gian và ẩm thực dân gian… đều thể hiện, gắn bó mật thiết với cồng chiêng (các tượng tròn ở nhà mồ của các dân tộc Tây Nguyên chỉ trở nên đẹp hơn với ngày lễ bỏ mả trong một không gian huyền ảo đầy những tiếng cồng chiêng sâu lắng). Với các dân tộc Tây Nguyên, phương tiện để nối kết cộng đồng cũng lại là cồng chiêng. Tiếng cồng chiêng vang lên để nối kết cá thể với cộng đồng, giữa cộng đồng này với cộng đồng khác của cùng một dân tộc. Điều đáng lưu ý là Tây Nguyên có nhiều dân tộc, nhưng các dân tộc luôn hoà hợp lẫn nhau trong văn hoá cồng chiêng mà vẫn giữ được bản sắc văn hoá của dân tộc mình, không có hiện tượng loại trừ hay đồng hoá văn hoá của nhau trong sinh hoạt văn hoá cồng chiêng. Các dân tộc đều có thể đến với nhau khi sinh hoạt văn hoá cồng chiêng. Tiếng cồng chiêng luôn đem đến một cảm xúc rạo rực khó tả trong mỗi con người, như sự đồng thanh tương ứng khiến họ tìm đến với nhau.
Từ khi không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, du lịch Tây Nguyên lại có thêm một sản phẩm du lịch riêng, thu hút ngày càng đông khách du lịch đến với Tây Nguyên, đến với sản phẩm du lịch độc đáo này.
Bạn đọc cũng quan tâm:
lễ hội cồng chiêng tây nguyên |
lễ hội cồng chiêng |
hội cồng chiêng |
lễ hội cồng chiêng của người ê đê |
Chia sẻ của khách hàng về Lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên – Di sản văn hóa thế giới