Thanh Hoá là tỉnh có tiềm năng, tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng, bao gồm cả tài nguyên du lịch nhân văn và tự nhiên. Hiện nay, du lịch Thanh Hoá có hàng trăm phòng đủ tiêu chuẩn đón khách quốc tế, trong đó có 1 khách sạn 2 sao, hàng năm đón tiếp trên 500.000 lượt khách đến thăm quan, nghỉ mát.
Bà Triệu sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (226), con một hào trưởng, em của Triệu Quốc Đạt, một huyện lệnh có khí phách, đức độ ở miền núi Quan Yên, quận Cửu Chân, nay thuộc huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Từ nhỏ, bà đã tỏ ra là người tài đức, thông minh và khí phách khác thường. Năm 18 tuổi, bà cùng anh dấy binh khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà Ngô với câu nói lưu truyền sử sách: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không muốn khom lưng làm tì thiếp cho người”.
Xem thêm:
Cuộc khởi nghĩa của Bà được nhân dân khắp nơi hưởng ứng. Thanh thế của nghĩa quân ngày càng lớn mạnh, khiến giặc Ngô hết sức hoảng sợ. Chúng đã phải cử những đạo quân hùng mạnh cùng nhiều viên tướng giàu kinh nghiệm trận mạc sang đàn áp nghĩa quân. Do sức mạnh và mưu mô thâm độc, quỷ quyệt của địch, nghĩa quân bị thất bại, Bà đã tuẫn tiết tại núi Tùng (Hậu Lộc) ngày 22 tháng 2 năm Mậu Thìn (248). Tinh thần yêu nước, chí khí quật cường của bà không chỉ làm cho kẻ thù run sợ mà còn là nguồn cổ vũ lớn đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự chủ của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử.
Để tỏ lòng biết ơn và tôn vinh Bà Triệu, nhân dân ta đã xây dựng đền Bà Triệu ở trên núi Gai, lăng của Bà ở núi Tùng và đình làng Bà Triệu ở làng Phú Điền, quanh năm hương khói thờ Bà. Hằng năm, vào tháng 2 âm lịch, nhân dân lại tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công lao của Bà. Theo các cụ cao niên ở làng Phú Điền: Lễ hội đền Bà Triệu được tổ chức với quy mô lớn (cấp tỉnh), 5 năm một lần, vào năm chẵn, còn hàng năm lễ hội vẫn diễn ra với quy mô cấp huyện tổ chức kỷ niệm vào các ngày giỗ Bà. Lễ hội diễn ra trên một không gian rộng theo quy trình đền, lăng, đình. Các điểm di tích ấy đều diễn ra tế lễ với nghi thức trang trọng vừa truyền thống vừa kết hợp với lễ hội đương đại. Riêng đình làng Phú Điền tổ chức nghi thức hội “Ngô – Triệu giao quân”. Tại đền Bà Triệu chủ yếu là tế lễ, như rước kiệu, tế nữ quan. Ngoài các nghi thức lễ trên còn có lễ Mộc dục. Đây là một nghi thức lễ được nhân dân địa phương rất chú ý, thận trọng, chọn ngày tốt để hành lễ, thường là ngày 18, 19 tháng 2 âm lịch ở cả 2 nơi đền và đình làng, do ông từ cả và 3 ông từ phụ chịu trách nhiệm.
Tiếp đó là tế Phụng Nghinh. Tế Phụng Nghinh là thủ tục mời vua Bà cùng lục bộ triều đình, hội đồng các quan, thánh tổ bách gia về trong ngày húy kỵ Vua Bà, là ngày rất trang nghiêm và linh thiêng, thời gian tế nửa ngày. Việc rước bóng là một nét độc đáo trong lễ hội Bà Triệu, trong ngày chính hội là một thể thức hết sức quan trọng, người ta đặt bát hương Vua Bà lên kiệu cùng với hộp tư trang, đĩa trầu cau. Có 8 chàng trai được chọn lọc, để khênh kiệu (có 8 đòn) mặc áo đỏ cộc tay, thắt lưng màu đỏ, đầu chít khăn đỏ, quần trắng, chân đất. Người chủ tế đi dưới gầm kiệu. Tiếp theo có kiệu song loan, trên kiệu có áo chầu và các hộp sắc phong, có 8 người khiêng. Nghi thức đi đầu có một hương án, 2 người vác lọng che hương án, trên kiệu có bát hương, trầu cau hoa quả. Sau hương án là phường bát âm cử nhạc lưu thủy, có trống, chiêng và 32 người thực hiện các nhiệm vụ vác gươm, vác bát bửu, dùi đồng. Cứ như thế, các đoàn vác cờ hội, kiệu song loan, người đi cùng đoàn rước kiệu ăn mặc chỉnh tề khăn nhiễu, quần trắng, áo lương. Đạo hành từ đền chính đến lăng rồi về đình làng. Đến lăng, kiệu được đặt trên giá đỡ và làm thủ tục nghi thức khấn đức Bà, nhân ngày húy kỵ, với tấm lòng thành kính của các con cháu thập phương nhớ công ơn Bà. Đoàn cử hành về đình làng, kiệu, bát hương bóng Bà đặt giữa đình và tiếp tục tế lễ một ngày một đêm gồm các tế yên vị, tế tam sanh. Sau đó đoàn rước tế theo lộ trình về đình chính để làm lễ.
Ngoài phần lễ thì trong phần hội không có trò diễn dân gian mà chỉ có hội trận tại đình làng Phú Điền, đây là linh hồn của các hoạt động lễ hội, bởi nó khơi dậy, liên tưởng đến hào khí chống quân Ngô của Bà…. Vào ngày hội, làng tự chia làm hai xóm, lấy ngôi đình lớn ở giữa làng làm ranh giới, phía bắc gọi là xóm trên, phía nam gọi là xóm dưới. Trai tráng của hai xóm với hàng trăm người từ 18 đến 45 tuổi chia thành hai phía quân tham gia tập trận chơi trò “Ngô – Triệu giao quân”. Mỗi người chuẩn bị sẵn một cây gậy bằng tre, dài ngắn tùy ý. Đúng sáng ngày hội lễ, trai xóm nào tập trung ở xóm nấy dàn thành thế trận.
Mở đầu, mỗi bên cho một vài người ra khiêu khích, tìm cách dụ đối phương tiến về địa phận của mình. Đội ngũ mai phục trong xóm đổ xô ra tấn công, phe bên kia ào ạt tràn sang tiếp ứng, dùng gậy tre để đánh nhau, có khi là bị chảy máu, mẻ đầu nhưng đâu lại vào đó, khỏe mạnh, dân làng lại đoàn kết, làm ăn phát đạt vì được Bà Triệu phù hộ và họ tin là có tập trận như vậy thì năm đó làng mới làm ăn sung túc hơn. Đoạn đường rộng nhất trước cửa đình làng là “bãi chiến trường”. Hai bên lề đường, nhân dân tập trung đông đảo, reo hò cổ vũ cho đội quân của mình. Lệ của làng là xóm nào xông lên nhiều lần là quân chiến thắng, được gọi là quân Bà Triệu. Bên nào phải rút chạy nhiều lần thì bên ấy là quân Ngô. Cuộc tập trận diễn ra từ sáng đến trưa, rồi tất cả hòa vào nhau để đi rước kiệu Bà. Thêm một tục lệ nữa, là ngày hôm đó cả làng đều ăn nguội (ăn thức ăn nấu sẵn từ hôm trước), để đến chiều mới nấu nướng linh đình. Các cụ giải thích là ra đánh trận là phải ăn lương khô, đến khi khải hoàn mới mở tiệc ăn mừng. Để phù hợp với thời gian và nhịp sống mới, một số quy tắc rườm rà của tế lễ được chọn lọc, rút ngắn… Ngoài các hoạt động truyền thống vốn có, còn có thêm nhiều nội dung phong phú như: thi đấu vật, leo dây, thổi cơm thi, đánh cờ tướng, văn nghệ quần chúng, thi nấu ăn, thi đấu các môn thể thao (bóng chuyền, bóng đá)…
Lễ hội đền Bà Triệu đã thực sự trở thành gạch nối giữa hiện tại và quá khứ, để lại ấn tượng sâu sắc trong cộng đồng về một vùng văn hóa giàu bản sắc, góp phần bảo tồn văn hóa truyền thống của dân tộc. Đồng thời đó cũng là sự tôn vinh và lòng biết ơn sâu sắc của hậu thế đối với Bà Triệu và những nghĩa quân anh dũng trong cuộc khởi nghĩa Bà Triệu. Việc bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa và tâm linh của lễ hội và khu di tích Bà Triệu gắn với các hoạt động du lịch của tỉnh sẽ là điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước.
Bên cạnh những nét kiến trúc độc đáo, đến với đền Bà Triệu công ty du lịch KAVO TRAVEL còn được biết nơi đây còn là nơi lưu giữ nhiều hiện vật quý hiếm và một kho tàng các sự tích, huyền thoại, câu đối, ca dao, thơ…Nhiều cổ vật được lưu giữ ở nơi đây như 10 cuốn thần phả viết bằng chữ hán, 65 đạo sắc phong qua các triều đại…và còn rất nhiều điều chúng tôi chưa thể nói hết. Tất cả xin dành cho du khách, hãy đến và cảm nhận.
Chia sẻ của khách hàng về Du lịch Sầm Sơn – Tìm về lễ hội đền Bà Triệu Thanh Hóa